Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên năm 1304, đời vua Trần Anh Tông, tương truyền vì nể phục trí tuệ uyên bác và tài ứng đối của ông khi đi sứ mà triều đình nhà Nguyên cũng phong tặng ông danh hiệu Trạng nguyên và ông được tôn xưng là Lưỡng quốc Trạng nguyên. Chuyện kể rằng khi đi sứ nhà Nguyên vào năm 1308, ông đến cửa ải muộn, viên quan canh cửa khẩu nhà Nguyên thách ông đối được câu đối thì mới mở cửa:
Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan
Mạc Đĩnh Chi đối lại:
Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối
(Dịch nghĩa: ra đối dễ, đối lại khó, mời tiên sinh đối trước)
Câu đối vừa đúng hoàn cảnh, vừa chuẩn lại vừa có ý trách viên quan giữ ải nhà Nguyên làm khó sứ bộ khiến ông ta nể phục và để sứ bộ đi qua.
Câu "xuất đối dị, đối đối nan" cũng nói lên cái khó của người bị thách đối. Có một giai thoại về chàng học trò thấy cô gái bán nước xinh đẹp nên đem lòng yêu mến. Cô gái thách chàng bằng vế đối:
Ngân bình kiên thượng tỵ (dịch nghĩa: Ấm bạc mũi trên vai)
Vì không đối lại được, chàng trai xấu hổ nên đã tự vẫn. Câu thách đối được ghi lên vách quán. Một lần Mạc Đĩnh Chi đi qua và biết chuyện, đã nói: "để ta giải oan cho linh hồn chàng trai trẻ", rồi ông viết lên bên cạnh:
Kim toả phúc trung tu (dịch nghĩa: Khoá vàng râu trong bụng)
Câu thách của cô hàng nước nhưng phải đến một Lưỡng quốc Trạng nguyên như Mạc Đĩnh Chi mới giải được. Như vậy việc đối lại quả thực là rất khó. Ngày nay chúng ta có thể xem thú chơi câu đối như một thú vui tao nhã, một truyền thống tốt đẹp, không nên quá câu nệ câu chữ hay cay cú hơn thua. Càng không nên bắt bẻ chữ nghĩa, vặn vẹo niêm luật để đả phá, khích bác. Âu cũng là cái đạo của văn chương!
No comments:
Post a Comment