- Một vé đối có từ, cụm từ có nghĩa thì ở vế kia cũng cần có từ, cụm từ có cùng số chữ tương ứng và có nghĩa đối ứng
- Hai từ/cụm từ tương ứng ở hai bên phải cùng loại: cùng là danh từ (đại từ, động từ, tính từ, trạng từ,...)
- Ý nghĩa của các từ, cụm từ tương ứng phải đối nhau (hoặc tối thiểu là khác nhau rõ rệt - không dùng từ đồng nghĩa): xanh/đỏ, xa/gần, lớn/nhỏ, tất bật/thong dong,...
- Các từ/cụm từ tương ứng phải cùng trong một phạm trù, ví dụ: trời, đất, sông, núi, cây, cỏ có thể coi là cùng phạm trù thiên nhiên; hoặc một, hai, ba, bốn, trăm, vạn, nghìn, triệu,... là các từ cùng thuộc phạm trù số lượng đếm được (cụ thể); hoặc vô vàn, một chút, toàn bộ,... thuộc phạm trù số lượng trừu tượng (không đếm được);...
- Các từ láy được đối với từ láy. Các từ láy có thể láy âm (lao xao, chạng vạng, lăn tăn); láy phụ âm (hiu hắt, xôn xao, le lói); hoặc láy cả âm và phụ âm.
Thông thường việc tuân thủ các điều trên là quan trọng, nhưng đôi khi cố ý phá cách một cách có chủ ý và tài tình lại có hiệu quả cao. Ví dụ trong câu đối Tết nổi tiếng của Nguyễn Công Trứ:
Chiều ba mươi nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra khỏi cửa
Sáng mồng một rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông phúc đón vào nhà
Câu đối mang tính trào phúng nhưng vô cùng chặt chẽ về niêm luật. Từng câu từng chữ đều tuân thủ các luật đối thanh, đối ngữ và đối nghĩa. Một chút phá cách là ở hai từ ông và thằng. Thường thì ông sẽ đối với bà, cụ,... nói chung là trong phạm trù những người được kính trọng hay có vai vế. Nguyễn Công Trứ lại đối với "thằng" rất chỉnh, nhất lại là "thằng bần"!
No comments:
Post a Comment